TÌNH HÌNH CÁC NHÀ (TÁI) BẢO HIỂM TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2022
Nguồn: insurancebusinessmag.com
Theo một báo cáo mới đây từ Nhà môi giới tái bảo hiểm Gallagher Re, tỷ lệ kết hợp[1] của các công ty (tái) bảo hiểm toàn cầu vẫn khả quan trong 9 tháng đầu năm 2022 mặc cho các tổn thất gia tăng trong quý 3.
Báo cáo cho thấy, hoạt động kinh doanh được duy trì vững mạnh với tỷ lệ kết hợp trung bình là 96,9%, nhờ vào mức tăng trưởng phí bảo hiểm hai con số, cũng như tổn thất thiên tai và tỷ lệ chi phí[2] thấp hơn. Mức tăng phí bảo hiểm hàng năm đạt trung bình 13% trong 9 tháng qua, nhờ giá phân khúc bảo hiểm thương mại và tái bảo hiểm được cải thiện.
Tuy nhiên, các khoản lỗ đã thực nhận và chưa thực nhận[3] trên vốn chủ sở hữu hay tài sản đầu tư thay thế khiến lợi nhuận đầu tư bị chậm trễ, ở mức 7,5% trong 9 tháng đầu năm 2022, so với mức 12,4% trong 9 tháng đầu năm 2021. Vốn cổ đông giảm 28%, nguyên nhân chủ yếu là do lãi suất tăng dẫn đến giá thị trường của các trái phiếu và cổ phiếu của các công ty tái bảo hiểm toàn cầu bị giảm sút.
Trích báo cáo, “Những nhà (tái) bảo hiểm chịu ảnh hưởng nặng nhất là những công ty có danh mục đầu tư trái phiếu dài hạn và phân bổ nhiều ở vốn chủ sở hữu. Lợi nhuận đầu tư thông qua cổ tức và mua lại cũng góp phần làm giảm vốn cổ đông, mặc dù tác động ít hơn.”
——————————————————————-
[1] Tỷ lệ kết hợp (combined ratio): là tổng các loại chi phí tính trên doanh thu phí bảo hiểm gốc. Nếu tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 100% đồng nghĩa với việc hoạt động kinh doanh bảo hiểm thua lỗ. Tỷ lệ kết hợp cho thấy công ty bảo hiểm/ tái bảo hiểm có lợi nhuận trong nghiệp vụ bảo hiểm hay không mà không xem xét đến lãi đầu tư từ phí bảo hiểm thu được.
[2] Tỷ lệ chi phí (expense ratio): là thước đo về khả năng sinh lời của công ty bảo hiểm, được tính bằng cách lấy tổng chi phí liên quan đến việc thẩm định, bảo lãnh chia cho phí bảo hiểm ròng thu được. Các chi phí có thể bao gồm quảng cáo, chi phí quản lý và tiền hoa hồng. Tỷ lệ chi phí cùng với tỷ lệ tổn thất (loss ratio) để tạo thành tỷ lệ kết hợp của một công ty bảo hiểm.
[3] Khoản lỗ chưa thực nhận (unrealized loss): là khoản lỗ trên giấy, chưa hiện thực hóa cho đến khi một cổ phiếu (hoặc khoản đầu tư khác) mà nhà đầu tư sở hữu thực sự được bán. Ví dụ, khoản lỗ chưa thực nhận xảy ra vào lúc một cổ phiếu bị giảm giá sau khi được nhà đầu tư mua về.
Khoản lỗ đã thực nhận (realized loss): là lỗ thật, xảy ra khi tài sản đầu tư đã được bán đi.