TÁI BẢO HIỂM ĐỐI MẶT RỦI RO LỚN TRONG ĐỢT DỊCH CORONA

Nguồn: asiainsurancereview.com

 

Tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới AM Best nhận định, các nhà tái bảo hiểm sẽ phải đối mặt với mức rủi ro lớn, cao hơn so với các nhà phát hành bảo hiểm nhân thọ hay bảo hiểm sức khỏe trong giai đoạn bùng phát virus corona hiện nay, bởi vì Hồ sơ rủi ro[1] của những nhà tái bảo hiểm có nguy cơ cao phải đối mặt với các rủi ro tử vong và bệnh tật.

 

 

Các công ty tái bảo hiểm hoạt động trên phương thức nhận một khoản phí bảo hiểm của công ty bảo hiểm khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Tái bảo hiểm được xem là mua lại một phần hay toàn bộ rủi ro từ công ty bảo hiểm khác, dựa vào đánh giá các điều kiện khác nhau thông qua Hồ sơ rủi ro. Đây là mô hình phân tích mức độ chấp nhận rủi ro của người đầu tư, từ đó sẽ đưa ra các quyết định phân bố đầu tư hợp lý.

AM Best nhận thấy phần lớn các công ty tái bảo hiểm dành hơn 40% vốn trước đa dạng hóa[2] cho các rủi ro tử vong và bệnh tật. Dù các công ty tái bảo hiểm toàn cầu cố gắng giảm thiểu việc tập trung vào những rủi ro này, thông qua mở rộng phạm vi quản trị rủi ro của họ cho các giải pháp tài chính, giải pháp quản lý tài sản và các thỏa thuận về rủi ro liên quan đến niên kim[3] khác, nhưng tình trạng dịch bệnh bùng phát như hiện nay, các trách nhiệm bồi thường vẫn có thể gây ra tổn thất lớn.

Trong khi đó, một bài bình luận gần đây của AM Best có tiêu đề “Virus Corona làm nổi bật tầm quan trọng của việc Kiểm thử sức chịu đựng[4]” cho rằng, nhìn chung ngành bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe có thể chi trả trong trường hợp tử vong hoặc bệnh tật, dù vậy các công ty bảo hiểm cần phải định lượng được tất cả các khía cạnh của dịch bệnh, bao gồm cả rủi ro kinh tế và rủi ro hoạt động[5]. Hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe đã đề cập đến rủi ro dịch bệnh trong các Kiểm thử sức chịu đựng với nhiều mô hình giả định khác nhau. Các công ty bảo hiểm tài sản và thiệt hại cũng có thể xử lý được những tổn thất do gián đoạn kinh doanh, hủy bỏ sự kiện và bảo hiểm liên quan đến du lịch, nhờ vào công nghệ tiến bộ và truyền thông hiệu quả.

Các công ty bảo hiểm với mô hình vốn kinh tế[6] đã được kiểm nghiệm thường định vị tốt hơn tác động tổng hợp giữa sự suy giảm GDP và sự gia tăng tỷ lệ tử vong, mắc bệnh. Công tác quản trị rủi ro doanh nghiệp cũng là một phần quan trọng trong phương thức các công ty xử lý những sự việc như trên.

 

——————————————————————-

[1] Hồ sơ rủi ro (risk profile, còn gọi là lược đồ rủi ro): là mô hình dùng để phân tích mức độ chấp nhận rủi ro của người đầu tư, theo thang điểm định tính thì có 3 mức độ là mức thấp (e ngại rủi ro), mức trung bình và mức cao (ưa thích rủi ro).

[2] Đa dạng hóa (diversification): là việc phân bổ vốn giữa năng suất và rủi ro của tài sản nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro và giảm tổn thất tài chính, ví dụ như Nhà đầu tư đầu tư vào cổ phiếu được phát hành bởi các tổ chức khác nhau. Nếu trong số đó có cổ phiếu không có lợi nhuận, thì những cổ phiếu có lợi nhuận sẽ giảm bớt thiệt hại xuống mức tối thiểu. Điều này sẽ giúp đa dạng hóa rủi ro.

[3] niên kim (annuity): là chuỗi các khoản thanh toán hàng năm. Dòng niên kim là một chuỗi các khoản thanh toán cố định, được trả đều đặn qua các kỳ.

[4] kiểm thử sức chịu đựng (stress test): Theo định nghĩa được đưa ra trong nhiều nghiên cứu như Blaschke, Jones, Majnoni và Peria (2001), Cihak (2004) hay Oura và Schumacher (2012), stress test là một phương pháp đo lường độ rủi ro của một danh mục đầu tư, một định chế tài chính, hay toàn bộ hệ thống tài chính trước những sự kiện hay kịch bản bất lợi. Kỹ thuật này ước tính những kết quả có thể xảy ra đối với lợi nhuận, vốn, dòng tiền… của từng định chế tài chính đơn lẻ hoặc của toàn bộ hệ thống khi một số rủi ro nhất định thực sự xảy ra.

[5] rủi ro hoạt động (operational risk, còn gọi là rủi ro tác nghiệp hoặc rủi ro vận hành): là rủi ro tại các tổ chức tín dụng, gây ra nguy cơ tổn thất do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc bị lỗi, do con người, do các hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài.

[6] vốn kinh tế (economic capital): là mức vốn mà từng công ty tự tính toán theo mức độ rủi ro bằng các mô hình toán thống kê của riêng họ nhằm đảm bảo lợi ích quản trị rủi ro. Vốn kinh tế là một phiên bản tự nguyện của vốn pháp lý.