RỦI RO TỪ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH CỦA TRUNG QUỐC
Nguồn: Fitch
Theo chỉ đạo của Chính phủ Trung Quốc, các công ty bảo hiểm trong nước bắt đầu bán sản phẩm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Trung Quốc ứng phó với sự bùng phát dịch COVID-19. Fitch – một trong những cơ quan xếp hạng tín dụng hàng đầu thế giới cảnh báo rằng hành động này có thể gây bất ổn cho công tác thẩm định của các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn.
Bài bình luận của Fitch với tựa đề ‘Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh gây rủi ro mới cho các công ty bảo hiểm Trung Quốc’ có viết, mục đích của chính sách bảo hiểm này là thúc đẩy nối lại kinh doanh sản xuất sau thời gian phong tỏa ngăn chặn sự lây lan của virus Corona. Fitch cho rằng, sản phẩm bảo hiểm này chưa có nhiều căn cứ tiền lệ chắc chắn, lại được đưa ra thị trường tương đối nhanh, khiến các công ty bảo hiểm khó có thể định giá sản phẩm chính xác. Giá trị của các sản phẩm bảo hiểm “trở lại làm việc” này vẫn khá mơ hồ vì diễn biến phức tạp của dịch bệnh ở trong nước lẫn trên thế giới.
Trước khi bùng phát dịch bệnh, phần lớn các doanh nghiệp Trung Quốc không quan tâm đến bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khi họ mua các sản phẩm bảo hiểm tài sản thương mại. Thế nhưng các sản phẩm này lại thường có điều khoản loại trừ đối với dịch bệnh, cho nên các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn sẽ không giải quyết các yêu cầu bồi thường liên quan đến dịch virus COVID-19. Theo Hiệp hội Bảo hiểm Trung Quốc, các khoản bồi thường liên quan đến dịch COVID-19 ở mức 123 triệu Nhân dân tệ (khoảng 407 tỷ VND) tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2020.
Theo số liệu từ Ủy ban Quản lý Ngân hàng và Bảo hiểm Trung Quốc, có 68 công ty bảo hiểm Trung Quốc đã ra mắt các sản phẩm liên quan đến dịch COVID-19 kể từ khi dịch bắt đầu bùng phát vào cuối năm 2019. Các tính năng bảo hiểm khác nhau tùy theo sản phẩm và khu vực, nhưng chủ yếu là để ứng phó với hai loại rủi ro: rủi ro trách nhiệm trong trường hợp người lao động bị bệnh hoặc tử vong và rủi ro liên quan đến gián đoạn kinh doanh vì lệnh đóng cửa cơ sở làm việc. Cụ thể bảo hiểm sẽ chi trả cho các phí cách ly, lương nhân viên, tiền thuê mặt bằng, thiệt hại do dòng tiền lưu thông gián đoạn hoặc tái cấp tài chính[1] khó khăn.
Tuy nhiên, cách thiết kế hoặc phân phối bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới có thể hạn chế được tổn thất chung mà ngành bảo hiểm đang phải gánh chịu, như quy định mức bồi thường tối đa nếu tình trạng lây nhiễm xảy ra sau khi nhân viên trở lại làm việc. Ở một số khu vực, các công ty bảo hiểm được quy định số lượng bán tối đa cho sản phẩm này. Những quy định trên giúp hạn chế rủi ro chung của các công ty bảo hiểm, cũng như tránh gây ra rủi ro hệ thống[2] nghiêm trọng cho ngành bảo hiểm phi nhân thọ. Các công ty bảo hiểm cũng triển khai các sản phẩm bảo hiểm ‘trở lại làm việc’ thông qua hình thức đồng bảo hiểm để chia sẻ rủi ro với công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước.
Phần lớn các sản phẩm bảo hiểm ‘trở lại làm việc’ sẽ được cung cấp cho các ngành hoặc lĩnh vực mà chính quyền địa phương ưu tiên viện trợ. Với một số chương trình bảo hiểm, những tổ chức phải có đủ điều kiện và sự chấp thuận từ Chính phủ mới được tham gia. Vài chương trình còn có quy định về thời hạn bảo hiểm. Nhà nước cũng sẽ trợ cấp phần lớn phí bảo hiểm (khoảng từ 50% đến 70%) trả cho các công ty bảo hiểm, để khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện tham gia. Fitch dự đoán nhu cầu về các sản phẩm bảo hiểm ‘trở lại làm việc’ sẽ duy trì trong thời gian ngắn sắp tới do dịch COVID-19 vẫn đang tiếp diễn.
——————————————————————-
[1] Tái cấp tài chính (refinancing): là hành vi trả hết một khoản nợ vay bằng tiền có được từ một khoản vay mới, thường cùng quy mô độ lớn tài chính, và sử dụng cùng một tài sản (bất động sản) để thế chấp. Người vay phải cân bằng lợi ích giữa phần tiền tiết kiệm được từ lãi suất với phần chi phí phải chi ra để có thể tiến hành quá trình tái cấp tài chính đó. Với bất động sản, người ta có thể tái cấp tài chính để rút ngắn thời gian trả một khế ướcbất động sản dài hạn. Tái cấp cũng giúp chuyển từ một khế ước có lãi suất vay cố định sang loại có lãi suất vay linh hoạt (adjustable rate mortgage), có thể điều chỉnh.
[2] Rủi ro (có) hệ thống (systematic risk): có rất nhiều loại rủi ro, thường phân rủi ro thành rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ thị trường, chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất, các yếu tố nằm ngoài công ty nên không thể kiểm soát được. Còn rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một chứng khoán hoặc một nhóm nhỏ các chứng khoán, do các yếu tố nội tại của công ty gây ra và có thể kiểm soát được.