QBE CÔNG BỐ KẾT QUẢ KINH DOANH NỬA ĐẦU 2022

Nguồn: insurancebusinessmag.com

 

Tập đoàn bảo hiểm QBE vừa công bố tình hình hoạt động trong năm nay, mặc dù doanh thu có sụt giảm, nhưng theo ông Andrew Horton – Giám đốc điều hành QBE, kết quả kinh doanh này cũng chứng minh sức bền của tập đoàn.

 

 

Dưới đây là kết quả tài chính nửa năm của QBE tính đến ngày 30 tháng 6.

QBE lí giải, lợi nhuận thuần phân bổ cho các cổ đông phổ thông của QBE giảm 66% là do ảnh hưởng xấu từ thị trường đối với những hạng mục đầu tư của tập đoàn, giao dịch tái bảo hiểm vượt mức bồi thường & mức dôi cho các tai nạn ở Bắc Mỹ vào năm trước, đánh giá triển vọng giá ở Úc, và sự chênh lệch lãi suất phi rủi ro[2] bất lợi.

Về khoản tổn thất đầu tư thuần của QBE trong 6 tháng đầu năm, có 547 triệu USD (khoảng 12,8 nghìn tỷ VND) từ quỹ khách hàng và 293 triệu USD (hơn 6,8 nghìn tỷ VND) từ quỹ cổ đông. Bàn về tình hình các hạng mục đầu tư của mình, QBE cho biết, “Kết quả kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các khoản lỗ chưa thực nhận[3] liên quan đến việc lợi suất trái phiếu tăng mạnh trong thời gian qua. Ứng với tác động từ những thay đổi trong lãi suất phi rủi ro đối với chứng khoán có thu nhập cố định[4], tổng lợi nhuận đầu tư đạt 14 triệu USD, ở mức 0,1% cho nửa đầu năm, giảm so với mức 0,7% trước đây.”

Về thu nhập cố định, lợi suất cốt lõi từ các hạng mục đầu tư gần như bị san bằng bởi chênh lệch tín dụng bất lợi. Về tài sản rủi ro, phần lớn lợi nhuận từ cơ sở hạ tầng và tài sản chưa niêm yết phải bù đắp cho các khoản lỗ chưa thực nhận từ cổ phiếu và thu nhập cố định gia tăng.

QBE đã công bố mức cổ tức tạm thời[5] là 9 AUD (hơn 145.000 VND) cho mỗi cổ phiếu, so với mức số 11 AUD vào nửa đầu 2021.

Ông Horton cho biết, “Mặc dù điều kiện hoạt động khó khăn, QBE đã chứng tỏ sức bền trong giai đoạn này, hầu hết hạng mục kinh doanh đều có xu hướng khả quan. Chúng tôi đã sớm đạt được tăng trưởng với các ưu tiên chiến lược mới và triển vọng tích cực trong thời gian còn lại của năm nay.”

 

——————————————————————-

[1] Tổng phí được hưởng (gross earned premium): là phí bảo hiểm thu được sau khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn. Vì công ty bảo hiểm có nghĩa vụ đối với các rủi ro được bảo hiểm trong thời gian bảo hiểm nên họ không lập tức xem phí bảo hiểm được thanh toán cho một hợp đồng là thu nhập, mà là phí bảo hiểm chưa được hưởng (unearned).

[2] Lãi suất phi rủi ro (risk-free rate): là lãi suất được giả định bằng cách đầu tư vào các công cụ tài chính mà không bị rủi ro vỡ nợ. Lãi suất phi rủi ro gần như hoàn toàn là lý thuyết, bởi vì tất cả các khoản đầu tư đều có một số loại rủi ro kèm theo. Trên thực tế, lãi suất phi rủi ro được giả định bằng lãi suất thanh toán trên tín phiếu kho bạc chính phủ kỳ hạn 3 tháng, và được xem là một trong những khoản đầu tư an toàn nhất với mức độ rủi ro thấp đến mức được coi là không đáng kể.

[3] Khoản lãi/lỗ chưa thực nhận (unrealized gain/loss): là khoản lãi/ lỗ trên giấy, chưa hiện thực hóa cho đến khi một cổ phiếu (hoặc khoản đầu tư khác) mà nhà đầu tư sở hữu thực sự được bán. Ví dụ, khoản lỗ chưa thực nhận xảy ra vào lúc một cổ phiếu bị giảm giá sau khi được nhà đầu tư mua về.

[4] Chứng khoán có thu nhập cố định (fixed income securities): là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của nhà phát hành.

[5] Cổ tức tạm thời (interim dividend): là cổ tức được chi trả trước của cổ tức đầy đủ (định kỳ).