KIỂM THỬ SỨC CHỊU ĐỰNG CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ

Nguồn: asiainsurancereview.com

 

Dịch virus Corona là một lời nhắc nhở cho các công ty bảo hiểm nhân thọ về tầm quan trọng trong việc kiểm thử sức chịu đựng[1] của bảng cân đối kế toán[2] vào những thời điểm bùng phát dịch bệnh.

 

 

George Hansen – Nhà phân tích cao cấp của tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới AM Best nhận định, một quy trình quản trị rủi ro doanh nghiệp chặt chẽ, bao gồm một số cấp độ kiểm thử sức chịu đựng, sẽ đảm bảo cho các công ty bảo hiểm được chuẩn bị tốt để đối phó với tình trạng dịch bệnh như hiện tại.

Các công ty thực hiện kiểm thử sức chịu đựng ở mức độ cao như vốn bị thiệt hại đến dưới mức quy định sẽ có khả năng ứng phó với dịch bệnh tốt hơn, bởi vì họ đã biết mức độ ảnh hưởng và có thể nhận diện vấn đề sớm hơn.

Các công ty bảo hiểm định kỳ kiểm thử sức chịu đựng như một phần của Tự đánh giá rủi ro và khả năng thanh toán[3] (ORSA) theo yêu cầu của cơ quan quản lý. Đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ, kiểm thử thường áp dụng cho các rủi ro về mắc bệnh và tử vong, hoặc các hình thức rủi ro khác như tín dụng hoặc lãi suất.

Các tài liệu cho thấy các công ty thường kiểm thử trường hợp tử vong bằng cách giả định số lượng tử vong tăng thêm 1.000 người trong một đến hai năm, trước khi trở lại mức độ tử vong thông thường. Những công ty khác có thể thực hiện kiểm thử với trọng số rủi ro[4] dựa trên tình trạng dự kiến. Những bài kiểm thử này có xu hướng cho kết quả rằng doanh thu các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ giảm vừa phải, và nói chung họ đều có thể xoay xở được.

Tuy nhiên, ông Hansen cho rằng các công ty bảo hiểm nên kiểm thử cả rủi ro kinh tế[5] và rủi ro hoạt động[6] của dịch bệnh, tính toán tác động tổng hợp của sự giảm sút trong GDP với sự gia tăng tử vong và bệnh tật. Các công ty nên có mô hình kiểm thử GDP vì nó thường đi kèm với hầu hết các dịch bệnh, ít nhất là trong một thời gian ngắn.

Một số nhà phân tích và nhà kinh tế đã hạ thấp dự báo GDP của Trung Quốc cho năm 2020 vì sự bùng phát dịch virus Corona.

Tập đoàn tài chính đa quốc gia Citi dự báo mức tăng trưởng cả năm của Trung Quốc sẽ giảm từ mức dự báo trước đó là 5.8% xuống còn 5.5%. Tổ chức nghiên cứu kinh tế toàn cầu (EIU) cũng cho biết, so với dự báo cơ bản là 5.9%, mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc có thể giảm từ 0.5 điểm phần trăm trở lên, có thể đến 1 điểm phần trăm nếu dịch bệnh bùng phát thành đại dịch như SARS.

Gần đây nhà bảo hiểm tín dụng hàng đầu Euler Hermes đã điều chỉnh mức dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2020 xuống còn 1.3% (giảm 0.5 điểm phần trăm). Hồng Kông, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đức có thể sẽ chịu nhiều tổn thất về xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang Trung Quốc.

 

——————————————————————-

[1] Kiểm thử sức chịu đựng (stress test): theo định nghĩa được đưa ra trong nhiều nghiên cứu như Blaschke, Jones, Majnoni và Peria (2001), Cihak (2004) hay Oura và Schumacher (2012), stress test là một phương pháp đo lường độ rủi ro của một danh mục đầu tư, một định chế tài chính, hay toàn bộ hệ thống tài chính trước những sự kiện hay kịch bản bất lợi. Kỹ thuật này ước tính những kết quả có thể xảy ra đối với lợi nhuận, vốn, dòng tiền… của từng định chế tài chính đơn lẻ hoặc của toàn bộ hệ thống khi một số rủi ro nhất định thực sự xảy ra.

[2] Bảng cân đối kế toán (balance sheet): là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có và nguồn vốn để hình thành các tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.

[3] Tự đánh giá rủi ro và khả năng thanh toán (Own Risk and Solvency Assessment – ORSA): các công ty bảo hiểm được yêu cầu tiến hành đánh giá rủi ro và khả năng thanh toán của mình và gửi kết quả đến cơ quan quản lý. Điều này giúp các công ty chú trọng đến việc xác định, đo lường và chủ động quản lý rủi ro, tính toán khả năng chi trả cho các hợp đồng bảo hiểm với khách hàng, cũng như khái quát được bất kỳ sự phát triển tương lai mà có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của họ.

[4] Trọng số rủi ro (risk weight): chỉ số đo lường mức độ rủi ro của các khoản đầu tư. Cụ thể trong ngành bảo hiểm là khả năng mà trong 1 hợp đồng bảo hiểm, công ty phải gánh chịu tổn thất do phí bảo hiểm thu được không đủ bù đắp các chi phí bồi thường các sự kiện bảo hiểm.

[5] Rủi ro kinh tế (economic risk): các điều kiện trong nền kinh tế có thể giúp doanh nghiệp tăng doanh thu hoặc giảm doanh số bán hàng. Ví dụ trong thời kỳ suy thoái kinh tế, các mặt hàng xa xỉ phẩm sẽ bị thu hẹp thị trường, khó bán hơn trong khi các nhu yếu phẩm thì sẽ bán đắt hàng hơn.

[6] Rủi ro hoạt động (operational risk, còn gọi là rủi ro tác nghiệp hoặc rủi ro vận hành): là rủi ro tại các tổ chức tín dụng, gây ra nguy cơ tổn thất do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc bị lỗi, do con người, do các hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài.